Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả làm rõ khái niệm nguyên tắc tranh tụng, phân tích quy định của pháp luật TTHS, thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng hiện nay và lí giải nguyên nhân của những hạn chế. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về nguyên tắc tranh tụng nhằm đảm bảo sự phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực hình sự.

 

Tóm tắt

Trong khuôn khổ đóng góp ý kiến hoàn thiện Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 theo chủ trương triển khai thi hành Hiến pháp 2013 và thực hiện chiến lược cải cách tư pháp về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự (TTHS). Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả làm rõ khái niệm nguyên tắc tranh tụng, phân tích quy định của pháp luật TTHS, thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng hiện nay và lí giải nguyên nhân của những hạn chế. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về nguyên tắc tranh tụng nhằm đảm bảo sự phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực hình sự.

 

1. Đặt vấn đề

Sự ra đời của Hiến pháp mới 2013 đã mở ra bước ngoặt trong công cuộc cải cách tư pháp nước ta trên tầm sâu rộng. Số lượng lớn các văn bản luật được sửa đổi trong thời gian gần đây để phù hợp với nội dung của Hiến pháp mới và trong đó có cả BLTTHS đang ở giai đoạn dự thảo sửa đổi. Trong xu hướng xây dựng nền tư pháp hiện đại, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế thì việc bảo vệ tối đa quyền con người và quyền công dân luôn được đặc biệt chú trọng. Với tinh thần ấy, nhằm nâng cao chất lượng của quá trình TTHS, xác định sự thật vụ án, đảm bảo tốt nhất yếu tố công bằng, khách quan trong xét xử và bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, trong Hiến pháp năm 2013 tại Khoản 5 Điều 103 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Hiến pháp là đạo luật gốc, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất do vậy quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp là tiền đề để xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo đảm tính tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng nói chung và trong BLTTHS nói riêng.

Nguyên tắc của TTHS là những tư tưởng chỉ đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong xây dựng toàn bộ các chế định, quy phạm pháp luật TTHS. Vì vậy, sự hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản trong pháp luật mà ở đây là nguyên tắc tranh tụng đóng một vai trò kim chỉ nam trong xây dựng nhà nước pháp quyền đúng nghĩa. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: "Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp". Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 tiếp tục khẳng định: “Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự… Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”. Yêu cầu tăng cường tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị không nên hiểu là yêu cầu thay đổi hệ thống tố tụng (từ hệ thống tố tụng thẩm vấn sang hệ thống hệ thống tố tụng tranh tụng), mà cần phải đựơc hiểu là yêu cầu cần phải tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.[1]Không hiếm trường hợp khi đưa ra xét xử, các bên tranh tụng bày tỏ quan điểm không rõ ràng về chứng cứ chứng minh, Tòa án buộc phải xét hỏi để làm rõ, bảo đảm công bằng cho các bên đương sự. Do vậy, vẫn cần kết hợp giữa mô hình tố tụng xét hỏi và tố tụng tranh tụng.

Trong điều kiện cụ thể về chính trị - luật pháp, kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đồng thời tính đến các quy luật phát triển khách quan cho thấy đây là thời điểm thích hợp để luật hóa nguyên tắc tranh tụng và nâng lên thành một nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS. Tuy nhiên, ở giai đoạn BLTTHS 2003 vẫn còn hiệu lực thì mô hình tố tụng ở nước ta còn mang nặng tính thẩm vấn, còn chứa đựng nguy cơ xâm phạm quyền con người, quyền công dân. Vì vậy, bài viết đào sâu tìm hiểu về hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong áp dụng thực tiễn vào mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam.

 

2. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS

2.1. Khái niệm về nguyên tắc tranh tụng trong TTHS

Các nhà nghiên cứu lịch sử Nhà nước và Pháp luật thế giới chứng minh rằng tư tưởng về tranh tụng bắt nguồn từ ý tưởng của nhà triết học cổ đại nổi tiếng người Hy Lạp Plato. Ông cho rằng “bằng cách nói chuyện (đối thoại) về một điều gì đó trong một thời gian dài, một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất hiện và cả hai bên sẽ cùng nhìn ra sự thật”.[2]Ý tưởng này của Plato được các luật gia Hy Lạp cổ đại phát triển và xây dựng thành là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS ở nhà nước Hy Lạp cổ đại. Sau đó, nguyên tắc này được đưa vào áp dụng ở La Mã và các quốc gia cổ đại khác ở Châu Âu với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”.[3] 

Dưới góc độ nghiên cứu của bài viết, nhóm tác giả phân tích tranh tụng được xem xét như một nguyên tắc trong TTHS. Trong khoa học pháp lý tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm nguyên tắc tranh tụng.

Theo TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi cho rằng: “Nguyên tắc tranh tụng đề cao vai trò của luật sư, của cá nhân và đặc biệt đề cao các quyền cơ bản của con người. Thẩm phán chỉ đóng vai trò trọng tài khách quan và công minh, ra phán quyết dựa trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên tòa. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện công khai ngay tại phiên tòa, dưới sự giám sát của Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán luôn phải chịu trách sức ép từ bên đối tụng. Vì vậy, mục đích của các bên trong tranh tụng là phải tự chứng minh được lý lẽ phải thuộc về mình, nếu không họ sẽ là người thua cuộc”.[4]Quan điểm này thể hiện vai trò của tranh tụng, đồng thời nêu lên được thế đối trọng giữa ba bên tại phiên toà. Tuy nhiên, quan điểm này còn hạn chế ở chỗ chỉ xem xét nguyên tắc tranh tụng ở giai đoạn xét xử tại phiên toà mà không bao quát hết các giai đoạn tố tụng.

Tác giả Nguyễn Đức Mai trong bài viết “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự” nêu quan điểm: “Nguyên tắc tranh tụng được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, nguyên lí, các định hướng chi phối toàn bộ quá trình tố tụng hoặc một số giai đoạn nhất định của tố tụng hình sự được ghi nhận trong các văn bản pháp luật”.[5] Định nghĩa này chỉ cho thấy nguyên tắc tranh tụng mang nội hàm như nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS, nhưng chưa thể hiện rõ được bản chất bình đẳng ba bên của tính tố tụng trong TTHS.

Với góc nhìn toàn diện hơn, trong bài viết của TSKH. Lê Văn Cảm và Nguyễn Huy Phượng nêu rõ: “Nguyên tắc tranh tụng của luật TTHS là tư tưởng chủ đạo và định hướng cơ bản được ghi nhận trong luật thông qua các quy phạm pháp lý, đồng thời là một quá trình được thể hiện chủ yếu bằng thủ tục tranh luận của các bên tại phiên toà sau khi đã nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các chứng cứ trên cơ sở dân chủ, bìnhđẳng với nhau, độc lập và tách riêng ba chức năng - buộc tội, gỡ tội (bào chữa) và xét xử vụ án hình sự để xác địnhsựthật khách quan nhằm bảo đảm cho Toà án đưa ra phán quyết tương ứng có hiệu lực pháp lý một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần bảo vệ vững chắc quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong hoạt động tư pháp hình sự”.[6]

PGS.TS Nguyễn Thái Phúc cũng trình bày quan điểm bao quát được đầy đủ nội dung của nguyên tắc tranh tụng như sau: “Tranh tụng được nhìn nhận như là một quá trình tồn tại, vận động, đấu tranh nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng cơ bản (chức năng buộc tội và chức năng bào chữa) là hai chức năng có định hướng ngược chiều nhau, đối trọng nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích của mình và phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên toà sơ thẩm trước Toà án có vai trò là trọng tài”.[7]

Như vậy, có nhiều quan niệm về nguyên tắc tranh tụng trong TTHS với các cách tiếp cận khác nhau. Nhận ra rằng, mỗi cách tiếp cận đều có yếu tố hợp lý riêng. Sự đa dạng trong nghiên cứu và đổi mới cải tiến quan điểm có thể nhìn nhận sự việc ở mọi khía cạnh giúp chúng ta tiếp cận chân lý khách quan. Theo quan điểm cá nhân của nhóm tác giả cho rằng: Nguyên tắc tranh tụng là tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho tất cả các giai đoạn của quá trình TTHS mà trong đó các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử tách biệt nhau và độc lập. Đặc biệt tại phiên toà xét xử, Toà án đóng vai trò là trọng tài ra phán quyết dựa trên kết quả tranh luận công khai và cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên tòa.

2.2. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS

Nguyên tắc tranh tụng giúp đảm bảo sự thật vụ án thông qua tranh tụng tại các giai đoạn trước xét xử cũng như giai đoạn xét xử. Bởi vì tranh tụng làm cho các yếu tố của vụ án như chứng cứ, lời khai,… của các bên rõ ràng, đồng thời cũng tìm ra điểm mâu thuẫn của chứng cứ. Điều này là căn cứ để tìm ra sự thật dưới những cách nhìn khác nhau đem lại cái nhìn toàn diện về vụ án.

Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo quyền con người và quyền công dân. Khi chức năng gỡ tội được nâng cao sẽ bình đẳng hơn với chức năng buộc tội của cơ quan buộc tội. Từ đó, làm giảm các vụ án oan sai, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Bởi lẽ, tác động to lớn của hoạt động xét xử đem đến cho xã hội, bản thân người bị buộc tội là rất lớn, quyền tự do thân thể, tính mạng, tài sản,… và có những quyền khi mất đi sẽ không thể phục hồi được nên chúng ta cần thực sự cẩn trọng khi đưa ra một phán quyết sao cho đúng người, đúng tội.

Hơn nữa, trong một nhà nước pháp quyền thì tính dân chủ và nhân đạo trong các chủ trương, chính sách của nhà nước phải được cụ thể hóa vào pháp luật. Chính vì thế, đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, luôn suy đoán theo hướng có lợi cho người bị buộc tội phản ánh tính nhân văn sâu sắc trong hệ thống pháp luật. Điều này phù hợp với tinh thần nhân quyền ngày càng được đề cao cũng như phản ánh xu hướng phát triển chung về mặt lập pháp trên thế giới.

 

3. Nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng

3.1. Nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam

Hiến pháp 2013 là một bản Hiến pháp tiến bộ vì nó đã mở rộng các quyền tự do của công dân hơn, đặc biệt đây là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta ghi nhận nguyên tắc tranh tụng tại Khoản 5 Điều 103 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.Sự ghi nhận này thể hiện mạnh mẽ việc nâng cao yếu tố tranh tụng trong các vụ án. Đây là tiền đề để chúng ta cụ thể hóa bằng các luật chuyên ngành nhằm phù hợp với sự vận động của xã hội, phản ánh đúng sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng của nước ta. Điều này dẫn đến sự cần thiết phải điều chỉnh hàng loạt các luật cho phù hợp với quy định của Hiến pháp mới trong đó tiêu biểu là BLTTHS.

Nền tảng mô hình tố tụng hình sự nước ta là mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng có một số yếu tố tranh tụng. Hiện nay, BLTTHS Việt Nam chưa quy định nguyên tắc tranh tụng nhưng các quy định của BLTTHS đã có những quy định thể hiện và đảm bảo thực hiện việc tranh tụng trong TTHS… như “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9 BLTTHS), nguyên tắc: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” (Điều 11 BLTTHS), nguyên tắc: “Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia” (Điều 15 BLTTHS), “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 16 BLTTHS), nguyên tắc: “Xét xử công khai” (Điều 18 BLTTHS), nguyên tắc: “Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án” (Điều 19 BLTTHS). Qua đó chứng minh nguyên tắc tranh tụng là mắt xích rất cần thiết trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của một hệ thống TTHS dân chủ và tiến bộ.

Tuy nhiên, BLTTHS 2003 còn đưa ra các quy định về quyền và nghĩa vụ của bên bị buộc tội còn nhiều hạn chế. Bên bị buộc tội thường có trình độ pháp luật thấp hơn so với bên bị gỡ tội và họ khó có khả năng thực hiện các quyền này trên thực tế nên họ rất cần sự trợ giúp của người bào chữa. Tuy nhiên, các quyền của người bào chữa cũng gặp không ít các vấn đề khó khăn trong thu thập chứng cứ, cung cấp chứng cứ,…. Ví dụ, theo Điều 58 BLTTHS, người bào chữa chỉ có quyền hỏi khi được sự đồng ý của Điều tra viên, tương tự với Khoản 2 Điều 66 thì chỉ có Tòa án, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát mới có thẩm quyền đánh giá chứng cứ. Điều này thể hiện sự bất bình đẳng trong các quy định của pháp luật về quyền của bên gỡ tội. Như vậy, trong BLTTHS nước ta đã có một số quy định tranh tụng nhưng còn mờ nhạt.

3.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc tranh tụng 

a. Những thành tựu đạt được

Một là, tính tranh tụng ngày càng được quan tâm góp phần giảm thiểu các vụ án oan sai. Bằng chứng là tỷ lệ án hình sự bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của thẩm phán lần lượt là 0,8% (năm 2011); 0,6% (năm 2012); 0,7 (năm 2013) và 0,6 (năm 2014).[8] Điều này thể hiện cải cách tư pháp đã có những tác động tích cực đến nhận thức của đội ngũ thẩm phán trong công tác xét xử. Vì vậy các án oan sai đã được khắc phục rõ nét.

Hai là, hoạt động tranh tụng được đề cao thể hiện thông qua việc tăng nhanh của đội ngũ luật sư. Theo thống kê đến năm 2013 cả nước có 63 đoàn luật sư trải khắp 63 tỉnh thành trong cả nước và đến ngày 15/9/2014 có 11.285 người được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và 3408 tổ chức hành nghề luật sư. [9] Đội ngũ Luật sư được tăng cường mạnh mẽ là tiền đề cho việc nâng cao nhận thức pháp lý của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tranh tụng tại tòa án cũng như các giai đoạn khác của vụ án hình sự vì đây là đội ngũ trợ giúp kiến thức pháp lý và đóng vai trò là người bào chữa bảo vệ cho quyền lợi của các bị can, bị cáo.

b. Những mặt hạn chế

Một là, mặc dù trình độ pháp lý của Thẩm phán được nâng cao, tuy nhiên kinh nghiệm công tác và năng lực xét xử không đồng đều đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa thì đội ngũ thẩm phán còn hạn chế về trình độ. Đồng thời đạo đức của thẩm phán cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tranh tụng nói riêng và chất lượng xét xử nói chung. Ngoài ra, vì mang tính quyền lực nhà nước nên nhiều Hội đồng xét xử đã vô tình quên đi vai trò “cầm cân nảy mực” của mình mà thực hiện cả chức năng buộc tội vốn thuộc quyền công tố của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử chủ yếu căn cứ vào hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra cung cấp. Theo thống kê ba năm từ 2011 đến năm 2013 toàn quốc thụ lý 211.745 vụ án với 375.437 bị cáo. Trong số đó đã xét xử sơ thẩm: 186.212 vụ/ 324.925 bị cáo Tòa chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát là: 180.000 vụ/ 186.212 vụ đã xét xử, chiếm 96,6%.[10]Mục đích thẩm vấn công khai tại phiên tòa là làm sáng tỏ những vấn đề còn mâu thuẫn nhưng không ít các thẩm phán còn thiếu dân chủ dùng bản cung để đe dọa bị cáo chẳng hạn như hỏi “Nếu không có tội sao bị cáo ký tên vào biên bản…?”

Hai là, còn một số Kiểm sát viên thiếu chủ động, nhạy bén, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chủ yếu trình bày dựa vào bản luận tội, cáo trạng mà không chú trọng đến tranh luận với luật sư. Bởi lẽ các Kiểm sát viên nghĩ rằng bản án sẽ được tuyên theo hồ sơ. Hơn nữa, về chỗ ngồi của Viện kiểm sát hiện nay đa phần là trên bục và cao hơn vị trí của luật sư, mọi người có tâm lý nghĩ Kiểm sát viên cao hơn luật sư và vì kiểm sát còn thực hiện quyền giám sát tính hợp pháp của phiên tòa và công tố mang quyền lực nhà nước. Hiện nay có mô hình bố trí lại chỗ ngồi của Kiểm sát viên với luật sư ngang nhau theo thí điểm tại Đà Nẵng là một sự tiến bộ lớn cần được nhân rộng bởi lẽ “chỗ ngồi” trong phiên tòa hình sự thể hiện trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng.[11]Tuy nhiên, không chỉ về phía buộc tội mà cả bản thân bên gỡ tội cũng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là đội ngũ luật sư, còn nhiều luật sư chỉ gửi bài bào chữa mà không tham gia phiên tòa tranh tụng vì nhận quá nhiều án cũng lúc. Dẫn đến việc đầu tư nghiên cứu hồ sơ và thời gian chưa hợp lý. Đặc biệt là các trường hợp luật sư bào chữa theo chỉ định chỉ làm việc cho có chứ chưa thực sự tâm huyết với việc bào chữa.

Ba là, nguyên tắc đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa của người bị tam giam, tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được thực thi hiệu quả. Xương sống của nguyên tắc tranh tụng chính là tính đối trọng của hai chức năng buộc tội và gỡ tội. Tuy nhiên, hiện nay khoảng 80% các phiên tòa hình sự ở Việt Nam thiếu người bào chữa thực hiện chức năng gỡ tội để có thể làm đối trọng với các cơ quan buộc tội của nhà nước. Rõ ràng những cơ quan nhà nước chuyên môn sẽ có kiến thức hơn những người bị buộc tội mà người bị buộc tội  lại thiếu sự giúp đỡ từ phía các luật sư thì hầu như bản án chỉ phán quyết dựa trên quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này dễ dẫn đến oan sai trong công tác xét xử điển hình như vụ án: Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), Đinh Quang Điền (Đăk Lăk),….

Bốn là, sự thiếu bình đẳng về quyền giữa bên bào chữa và bên buộc tội được thể hiện qua việc đánh giá chứng cứ, xét hỏi tại phiên tòa, lấy lời khai của người bị tam giữ, bị can. Vẫn có trường hợp yêu cầu của luật sư và bị cáo không được xem xét và trả lời  Ngoài ra, theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003 thì người bào chữa có quyền có mặt khi lấy khai, hỏi cung và chỉ được hỏi nếu Điều tra viên đồng ý. Thực tế do tâm lý lo ngại người bào chữa sẽ cản trở hoạt động điều tra nên Cơ quan điều tra thường gây khó khăn cho luật sư chẳng hạn như trì hoãn, thay đổi lịch hỏi cung nhiều lần, rườm rà trong thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Do vậy hiện có rất ít người bào chữa có thể tham gia bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra.

Cuối cùng là, đảm bảo quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo dù đã được ghi nhận trong BLTTHS 2003 tại Điểm e Khoản 2 Điều 50 nhưng thực tế các đối tượng trên không có khả năng thực hiện quyền luật định này do xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về kiến thức pháp luật và sự thiếu hụt cơ chế để thực hiện quyền này trên thực tế: “Pháp luật cho phép bị cáo có quyền tự bào chữa nhưng lại không quy định các thiết chế cần thiết để đảm bảo thực hiện quyền tự bào chữa đó. Về nguyên tắc muốn tự bào chữa cho mình đồng thời thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng tại Tòa thì bị cáo phải được đọc và nghiên cứu hồ sơ, đối chất với các nhân chứng chống lại mình trước khi mở phiên tòa. Có như vậy thì bị cáo mới nắm bắt được các tình tiết, chứng cứ của vụ án để có cơ sở đối đáp với Kiểm sát viên”.[12]

3.3. Nguyên nhân của sự hạn chế tính tranh tụng trong TTHS

Với nhiều nguyên nhân khách quan về mặt lập pháp, điều kiện xã hội Việt Nam cho đến chủ quan về mặt nhận thức của các chủ thể tham gia tố tụng đã dẫn đến những hạn chế, khuyết điểm khá phổ biến và đáng lo ngại trong thực tiễn tranh tụng hình sự.

Thứ nhất, về mặt khách quan, quy định Tòa án có chức năng khởi tố vụ án hình sự theo Điều 13, Điều 104 của BLTTHS là chưa thật sự phù hợp với chức năng của Tòa án trong TTHS là xét xử. Khởi tố vụ án hình sự tuy chưa phải là buộc tội đối với một người cụ thể nhưng đó là nhiệm vụ thuộc về chức năng buộc tội. Theo quy định hiện hành bên Tòa án vừa giữ chức năng xét xử và khởi tố vụ án sẽ không đảm bảo tính trung lập giữa hai chức năng bào chữa và buộc tội.

- Tại Khoản 2 Điều 207 BLTTHS quy định trình tự xét hỏi đầu tiên thuộc về Tòa án rồi mới đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Hoạt động này nằm ngoài chức năng xét xử theo nguyên tắc tranh tụng bởi lẽ Tòa án là trọng tài, dựa trên tất cả các chứng cứ, kết quả tranh luận tại phiên tòa giữa hai bên buộc tội và bào chữa mà ra phán quyết. Đồng thời, quy định này cũng hạn chế tính chủ động, tích cực trong khai thác chứng cứ qua quá trình xét hỏi giữa hai bên buộc tội và bào chữa bởi vì hội đồng xét xử có quyền ưu tiên trong thứ tự xét hỏi nên những thông tin này có thể đã xét hỏi rồi nên các bên sẽ không cần hỏi lại nữa.

- Điều 10 của BLTTHS quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Tòa án, điều này dễ gây hiểu nhầm Tòa án cũng thuộc về bên buộc tội. Để đảm bảo cho việc tranh tụng tại phiên tòa diễn ra dân chủ, bình đẳng, khách quan thì cần phải xác định rõ vai trò của hội đồng xét xử tại phiên tòa là người trọng tài giữa bên buộc tội và bên bào chữa để phán quyết về vụ án.

- Theo mô hình tố tụng nước ta vẫn duy trì chức danh Kiểm sát viên thay vì Công tố viên. Ngoài chức năng công tố thì Kiểm sát viên đồng thời giữ quyền kiểm sát đối với hoạt động tố tụng theo Khoản 1 Điều 37 BLTTHS. Quy định này tạo thế không cân bằng giữa ba bên là xét xử, buộc tội và bào chữa theo nguyên tắc tố tụng vì bên buộc tội là Viện kiểm sát được thi hành quyền giám sát đối với bên xét xử. Điều này không tạo ra sự độc lập trong xét xử mà cụ thể là giữa Viện kiểm sát và Tòa án.

- Cả trên phương diện pháp lý và thực tiễn, người bào chữa chưa được đảm bảo các cơ hội để trở thành một bên bình đẳng với bên buộc tội trong việc thực hiện chức năng bào chữa của mình. Ví dụ tại Điều 58 BLTTHS hạn chế người bào chữa chỉ được hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được Điều tra viên đồng ý. Quy định này gây bất lợi cho người bào chữa trong việc tiếp cận, thu thập chứng cứ qua lời khai ban đầu có giá trị vì khi đó bị can, bị cáo chưa bị tác động nhiều về sức ép tâm lý qua các quá trình điều tra của cơ quan điều tra. Ngoài ra, tại Khoản 2 Điều 66 BLTTHS quy định thẩm quyền đánh giá chứng cứ thuộc về Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm, hoặc nói cách khác thẩm quyền này chỉ thuộc về bên buộc tội và bên xét xử, điều này không công bằng đối với bên bào chữa.

- Theo BLTTHS 2003 thì Điều tra viên, Kiểm sát viên có quyền chủ động triệu tập người làm chứng quy định tại Điều 133, Điểm a Khoản 4 Điều 55. Tuy nhiên, pháp luật TTHS lại chưa thừa nhận tính hợp pháp đối với người làm chứng do người bào chữa hoặc bị can, bị cáo yêu cầu. Điều này là bất lợi lớn đối với người bào chữa vì tính tranh tụng công bằng tại phiên tòa khó được bảo đảm và do vậy không đảm bảo được quyền con người cho những đối tượng bị buộc tội.

- Các quyền của bị cáo, bị can được nêu tại Khoản 2 Điều 49 và Khoản 2 Điều 50 không quy định quyền thu thập chứng cứ của bị can, bị cáo trong trường hợp họ không có người bào chữa và cho thấy sự khó khả thi trên thực tế quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo tại Điểm e Khoản 2 các Điều 49, 50.

- Xét về yếu tố xã hội do tiếp nhận nền tư pháp của các nước châu Âu lục địa và ảnh hưởng từ nền kinh tế bao cấp trước đây nên Việt Nam xây dựng mô hình tố tụng mang đậm bản chất thẩm vấn. Ở khía cạnh khác do trình độ pháp lý của các cán bộ tư pháp chưa đủ đáp ứng nên phải áp dụng mô hình thẩm vấn để tránh bỏ lọt tội phạm.

Thứ hai, về mặt chủ quan, xuất phát từ nhận thức của các chủ thể tiến hành tố tụng. Bản chất của trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người bị buộc tội trước Nhà nước mà các cơ quan tiến hành tố tụng là các cơ quan nhà nước nên có xu hướng bảo vệ cho quyền lợi của Nhà nước, kết tội dựa trên hồ sơ án chứ chưa thật sự tôn trọng kết quả tranh tụng tại Tòa án. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại định kiến về đổi mới tư duy pháp lý cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến nâng cao tính tranh tụng trong TTHS hiện nay ở nước ta. Mặt khác, về nhận thức của người bào chữa cũng chưa thực sự chủ động trong vận dụng các quyền luật định, một số luật sư còn thiếu kỹ năng tranh tụng cần thiết.

 

4. Kiến nghị

Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn cũng như quá trình thể chế hóa các quy định dân chủ và tiến bộ, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2003 theo hướng như sau:

Thứ nhất, cần ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của BLTTHS do tầm quan trọng của nguyên tắc trong việc bảo vệ quyền con người và đảm bảo đi đúng hướng đối với tinh thần cải cách tư pháp. Hơn nữa, việc luật hóa tranh tụng trở thành nguyên tắc cơ bản là phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay khi quyền con người ngày càng được chú trọng.

Thứ hai, mở rộng các quyền thu thập chứng cứ cho người tham gia tố tụng. Bởi lẽ chứng cứ là một trong những căn cứ vững chắc, khách quan để định tội, định khung hình phạt cho nên nếu chứng cứ chỉ được thu thập từ các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) như hiện nay là chưa đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng. Ngoài ra, để bảo đảm quyền tự bào chữa trên thực tế thì pháp luật nên cho phép bị can, bị cáo có quyền được đọc và nghiên cứu hồ sơ vụ án, cũng như được yêu cầu bổ sung chứng cứ nếu thấy trong hồ sơ vụ án còn thiếu. Điều này giúp các bên chủ động thực hiện quyền cũng như có ý kiến lập luận, bác bỏ yêu cầu của bên kia khi trình bày trong phiên xét xử.

Thứ ba, cần quy định Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm thay thế cho quy định tại Điều 10 BLTTHS 2003. Việc chứng minh tội phạm thuộc về trách nhiệm của cơ quan buộc tội là Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, còn việc chứng minh các yếu tố gỡ tội thuộc về người bào chữa, bị can, bị cáo. Nên quy định trình tự hỏi tại phiên tòa như sau: Kiểm sát viên sẽ hỏi trước, sau đó đến người bào chữa và cuối cùng còn những gì chưa rõ thì Hội đồng xét xử sẽ hỏi sau cùng. Ở đây, Tòa án chỉ là người trọng tài ở giữa xét xử, ra bản án dựa vào kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa và thông qua tại phòng nghị án.

Thứ tư, ghi nhận nguyên tắc tranh tụng không chỉ dừng lại ở giai đoạn xét xử mà cần mở rộng cả các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Yếu tố tranh tụng tập trung cao nhất ở giai đoạn xét xử thể hiện qua hoạt động tranh luận. Tuy nhiên, tranh tụng không chỉ xuất hiện ở giai đoạn xét xử mà nó xuất hiện đồng thời với buộc tội, gỡ tội. Bởi có buộc tội thì có nhu cầu gỡ tội để thu thập chứng cứ, chứng minh lý lẽ, phản biện. Vậy nên việc ghi nhận như tại Điều 26 dự thảo BLTTHS 11/8/2015 “Đảm bảo tranh tụng trong xét xử” là vẫn chưa khái quát hết được vai trò của nguyên tắc tranh tụng, Do đó, việc quy định nguyên tắc tranh tụng tồn tại từ giai đoạn điều tra sẽ góp phần đảm bảo chân lý khách quan của vụ án, làm cơ sở để loại trừ các sai phạm tư pháp như: bức cung, nhục hình,… làm sai lệch hồ sơ vụ án.

Thứ năm, xuất phát từ sự bình đẳng giữa hai bên buộc tội và bào chữa, nhằm đảm bảo tính công bằng trong xét xử của Tòa án, chúng ta cần quy định chức năng giám sát hoạt động tư pháp cho một cơ quan khác độc lập với các bên và Viện kiểm sát sẽ chỉ giữ vai trò công tố trong các vụ án hình sự. Đồng thời, nhóm tác giả kiến nghị bỏ quyền khởi tố vụ án hình sự của Tòa án theo quy định tại Điều 13, Điều 104 BLTTHS 2003 bởi lẽ Tòa án cần khách quan trong công tác xét xử và tránh thiên về chức năng buộc tội như hiện nay.

Cuối cùng, cần nâng cao hơn nữa trình độ cũng như ý thức tranh tụng của các chủ thể trong pháp luật tố tụng hình sự nhằm phát huy tối đa và đúng vai trò của họ trong vụ án hình sự, góp phần giảm thiểu các vụ án oan sai. Các chủ thể tiến hành tố tụng không chỉ chú ý đến các tình tiết buộc tội mà quên xử đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ tinh thần nghiêm minh của pháp luật, thể hiện sự tôn trọng quyền con người trong các vụ án hình sự./.

 
 

[1]Hoàng Thị Quỳnh Chi, “Bàn về tranh tụng trong Tố tụng hình sự”, Viện khoa học kiểm sát VKSNDTC, [http://www.vksndtc.gov.vn/tin-chi-tiet-5290] (truy cập lần cuối ngày 18/10/2015)

[2]Khoa Luật Trường Đại học Cannor Mỹ (2003), Tạp chí Thông tin khoa học xét xử, (01), tr.10.

[3]Thẩm phán Elisabeth Pelsez (2002), Kỷ yếu hội thảo “Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng. Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm, quản lý thẩm phán.”, Nhà pháp luật Việt – Pháp.

[4]Hoàng Thị Quỳnh Chi, “Bàn về tranh tụng trong Tố tụng hình sự”, Viện khoa học kiểm sát VKSNDTC, [http://www.vksndtc.gov.vn/tin-chi-tiet-5290] (truy cập lần cuối ngày 18/10/2015)

[5]Nguyễn Đức Mai (1996), “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học, (01), tr 23.

[6]Lê Văn Cảm và Nguyễn Huy Phượng (2011), “Hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (13), tr.43.

[7]Nguyễn Thái Phúc (2008), “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong TTHS theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (08), tr.58.

[8]Chánh án Trương Hoà Bình nói về những nghi án oan đang được “xét lại”,

[9]Đoàn Hữu Sơn, Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam, tr45.

[10] Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội nhiệm kỳ VIII (bản tóm tắt), 25/10/2013.

[11]Dương Hằng, “Đà Nẵng: Đổi mới vị trí ngồi tại phiên xử”, Pháp luật tp, [http://phapluattp.vn/phap-luat/da-nang-doi-moi-vi-tri-ngoi-tai-phien-xu-4035] (truy cập lần cuối ngày 18/10/2015)

[12]Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014), “Một số kiến nghị góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tranh trụng tại phiên tòa hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân,  (11), tr.01

 

CHUNG THỊ HÂN - HUỲNH THY

Tags