Trong một nhà nước dân chủ, nhân quyền vẫn luôn chiếm một vị trí trung tâm, được bảo vệ trước quyền lực của nhà nước. Do vậy, dù là ở hoàn cảnh nào thì nhân quyền luôn được đề cao thông qua việc được quy định cụ thể trong Hiến pháp và ngày càng được hoàn thiện hơn để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, tình hình đất nước, và cả thế giới.

 

1. Dẫn nhập

Liên Hợp Quốc chính thức công nhận khái niệm nhân quyền vào năm 1948 với sự ra đời của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người. Trong đó, thuật ngữ Nhân quyền được hiểu một cách đơn giản nhất là quyền con người: “những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”.

Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ có viết: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng rằng tạo hoá đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc” . Như vậy, quyền con người – dù được nhìn nhận dưới góc độ nào, đều được hiểu là những quyền tự nhiên cơ bản của con người, không thể bị tước đoạt, chiếm giữ bởi bất cứ ai và bất cứ thế lực nào.

Nhìn nhận được vấn đề trên, các bản Hiến pháp của Việt Nam đều ghi nhận và bảo đảm quyền con người một cách tối đa. Sau các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 thì Hiến pháp 2013 đã có sự kế thừa một cách chọn lọc và ghi nhận quyền con người ở một tầm cao mới. Qua bài viết “Nhân quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam”, chúng tôi hy vọng sẽ mang lại một cái nhìn toàn diện về quyền con người trong các bản Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp 2013, cho quý độc giả.

 

2. Khái niệm nhân quyền

Nhân quyền (hay còn gọi là quyền con người) được hiểu là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào[1].

Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền: “Nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người”[2]

Tại Việt Nam, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu lợi ích tự nhiên, vốn có khách quan của con người được bảo vệ và ghi nhận trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.[3]

 

3. Quy định về nhân quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam

3.1 Hiến pháp 1946

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Hiến pháp 1946 là Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà [....] dân tộc Việt Nam đã có mọi quyền tự do [....] phụ nữ Việt Nam đã được ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền cá nhân của công dân”.

Hiến pháp năm 1946 được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 09/11/1946 với 7 chương và 70 Điều. Trong đó, chương “Quyền và nghĩa vụ của công dân” được xếp thứ 2 gồm 18 Điều và đặt nghĩa vụ trước quyền lợi. Điều 7 Hiến pháp lần đầu tiên ghi nhận quyền bình đẳng trong lịch sử dân tộc trong đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất.[4]Ngoài ra, Hiến pháp cũng quy định đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện, có quyền tự do ngôn luận, quyền tư hữu tài sản được bảo đảm,... Đặc biệt tại Điều 21 ghi nhận: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”. Tuy nhiên, do là bản Hiến pháp đầu tiên nên Hiến pháp 1946 cũng có những hạn chế nhất định như: đồng nhất quyền con người với quyền công dân, nền sơ học cưỡng bách và không học phí,.... đó là lý do vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Bản Hiến pháp chưa hoàn toàn, nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới, nước Việt Nam là một nước độc lập. Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới: phụ nữ đã được đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng chung mọi quyền tự do của một công  dân... Hiến pháp đó cũng đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các dân tộc”.

3.2 Hiến pháp 1959

Như đã đề cập ở phần trên, Hiến pháp 1946, Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Nhà nước ta đã hoàn thành sứ mệnh của nó, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới bấy giờ, nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ VI, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946 và thành lập Ban dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Ngày 18-12-1959, tại kỳ họp thứ XI Quốc hội khoá I, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 01-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp.

Hiến pháp năm 1959 bao gồm 10 chương 112 Điều, trong đó Quyền và Nghĩa vụ của công dân được quy định tại chương III (thay vì chương II như Hiến pháp 1946) bao gồm 21 Điều (từ Điều 22 đến 42). So với Hiến pháp 1946 thì Hiến pháp 1959 đã bổ sung những quy định mới về quyền con người như: Quyền khiếu nại tố cáo với cơ quan Nhà nước (Điều 29), Quyền làm việc (Điều 30), Quyền nghỉ ngơi (Điều 31). Bên cạnh quy định quyền, Hiến pháp 1959 cũng quy định cụ thể những nghĩa vụ cơ bản của công dân. Một điều đáng lưu ý, Hiến pháp 1946 đề cao vai trò của nhân dân trong quá trình lập hiến, theo đó nhân dân có quyền phúc quyết Hiến pháp – phúc quyết để thực thi quyền làm chủ đất nước và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia[5]. Tuy nhiên, Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 sau này đều bãi bỏ quyền này. Đây là một quyền dân chủ trực tiếp rất quan trọng của công dân và nên được khôi phục lại.

Với sự thay đổi của nền kinh tế - xã hội, Hiến pháp 1959 ra đời phần nào đã khắc phục được những hạn chế của Hiến pháp năm 1946 - những điều khoản không còn phù hợp với tình hình. Hiến pháp 1959 có thể xem như là một bước tiến mới trong quy trình kỹ năng lập hiến Việt Nam.

3.3 Hiến pháp 1980

So với Hiến pháp 1946 và 1959 thì nhân quyền trong Hiến pháp 1980 ngày càng hoàn thiện và chặt chẽ hơn về kỹ thuật lập pháp. Quy định ở các Điều luật ngày càng cụ thể hơn, đồng thời tiếp thu có chọn lọc và kế thừa các quy định từ các bản Hiến pháp trước đó. Một ví dụ về việc kế thừa và phát triển kỹ năng lập pháp qua các bản Hiến pháp về nhân quyền, mà cụ thể là về quyền bình đẳng, được thể hiện qua các bản Hiến pháp như sau: nếu như Hiến pháp năm 1946 quy định tại Điều 6 đến Điều 9 trong đó có các nội dung là: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá. Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình. Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung. Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” thì đến Hiến pháp năm 1980, đối với Quyền bình đẳng nam, nữ (Điều 63), Hiến pháp bổ sung bốn điểm mới: một là, Nhà nước và xã hội có nghĩa vụ chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ để phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội; hai là, Nhà nước cần hoạch định chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ; ba là, xã viên hợp tác xã cũng được hưởng phụ cấp sinh đẻ; bốn là, Nhà nước và xã hội phải chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, các nhà ăn công cộng và những cơ sở phúc lợi khác. Không chỉ là nội dung ngày càng hoàn thiện mà số lượng các điều khoản ở Hiến pháp 1980 cũng nhiều hơn so với bản Hiến pháp trước. Nếu trước đây, ở Hiến pháp năm 1946 chỉ có 18 Điều quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân thì ở Hiến pháp năm 1959 là 21 Điều và Hiến pháp năm 1980 là 29 Điều.

Mặc dù ở Hiến pháp 1980 có những điểm tiến bộ hơn trong việc ghi nhận nhân quyền so với hai bản Hiến pháp trước, tuy nhiên, ở bản Hiến pháp này, ta vẫn thấy một số bất cập như khi quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân vẫn còn hạn chế, cách quy định các quyền trong Hiến pháp 1980 theo tư duy cũ, thể hiện tư tưởng “Nhà nước ban phát quyền” cho dân. Tuy nhiên, theo tinh thần Hiến pháp của các nước phát triển thì các quyền con người là bẩm sinh, vốn có của mỗi cá nhân con người, không ai có thể vi phạm và không chủ thể nào có thể ban phát. Nhà nước phải có trách nhiệm thừa nhận và đảm bảo những quyền đó được thực hiện trên thực tế. Như vậy, cách tiếp cận của Hiến pháp nước ta hoàn toàn khác với cách tiếp cận Hiến pháp của các nước phát triển. Một điểm hạn chế nữa ở bản Hiến pháp này là không thừa nhận sở hữu cá nhân. Có lẽ do quan niệm quá giản đơn và vội vàng nên các Hiến pháp năm 1959 và năm 1980 đã không thừa nhận sở hữu tư nhân. Trong những năm chiến tranh, quy định này có tác dụng rất lớn cho việc vận động nhân dân tập trung sức người, sức của vì sự thắng lợi của công cuộc kháng chiến. Tuy nhiên khi bước sang công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thì quy định như trên lại là nguồn gốc cho sự cào bằng và thờ ơ với tư liệu sản xuất, dẫn đến tình trạng lãng phí của công, thiếu trách nhiệm trong việc quản lý tài sản, nạn tham ô công quỹ tràn lan và trở nên phổ biến. Hiến pháp 1980 cần khắc phục điểm yếu này và thể hiện nhận thức mới về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

3.4 Nhân quyền trong Hiến pháp 1992

Hoàn cảnh đất nước thay đổi, đang trên đà quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có những quy định về vấn đề nhân quyền trong Hiến pháp 1980 đã không còn phù hợp nữa mà buộc phải thay đổi bằng một bản Hiến pháp mới phù hợp hơn với tình hình đất nước lúc bấy giờ - Hiến pháp 1992. Có thể nói, những bản Hiến pháp càng về sau thì càng “ưu việt” hơn các bản Hiến pháp trước đó. Về hình thức thể hiện, các quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 với kỹ thuật lập pháp chuẩn xác hơn. Lần đầu tiên, thuật ngữ “quyền con người” được thừa nhận trong Hiến pháp (ba bản Hiến pháp trước đồng nhất quyền con người với quyền công dân). Ngôn ngữ thể hiện chặt chẽ, phản ánh đúng hiện thực khách quan, bỏ đi một số câu chữ mang tính nhân văn nhưng không phù hợp với thực tiễn.

Số lượng các quyền và nghĩa vụ ghi nhận trong chương về Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng có bước phát triển, không chỉ so với ba bản Hiến pháp trước mà còn so với Hiến pháp của các nước. Nếu Hiến pháp 1946 có 28 Điều về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp 1959 có 21 Điều, Hiến pháp 1980 có 28 Điều thì Hiến pháp 1992 có 34 Điều trên tổng 147 điều của toàn bộ Hiến pháp. So riêng với Hiến pháp 1980 thì Hiến pháp 1992 chỉ giữ lại 4 Điều không sửa chữa, 26 Điều phải sửa đổi, bổ sung và thêm 4 Điều mới với sự sắp xếp hợp lý hơn. Cũng chính vì việc tăng các Điều luật hơn so với các bản Hiến pháp trước đó mà quyền công dân ở Hiến pháp 1992 được mở rộng hơn so với 3 bản Hiến pháp trước. Ví dụ, quyền sở hữu tài sản của công dân được ghi nhận một cách khái quát hơn (Điều 58).

 Dung lượng và những thay đổi về hình thức đó thể hiện kỹ thuật lập hiến ngày một nâng cao theo nguyên tắc luật phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và có tính khả thi. Cũng như các bản Hiến pháp năm 1946, 1959 hay 1980, các quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp 1992 đã được bổ sung và cụ thể hóa hơn để đi đến hoàn thiện. Các quyền cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp năm 1980 đã được chỉnh lý lại cho phù hợp với điều kiện thực tế của thời kỳ của quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận quyền tư hữu như là một trong những quyền cơ bản nhất của công dân. Việc xác định lại quyền tư hữu của công dân - một trong những quyền cơ bản nhất của con người, là một nội dung căn bản nhất của bản Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới và nhận thức lại các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là những thành công trong việc ghi nhận về nhân quyền trong Hiến pháp Việt Nam.

Tuy vậy, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, những quy định về nhân quyền của Hiến pháp 1992 đã có một số điều không còn phù hợp cần thay đổi nó thể hiện qua các bất cập sau:

Thứ nhất, quyền con người đồng nghĩa với quyền công dân như quy định ở Điều 50 của Hiến pháp 1992 là thiếu chính xác, dễ gây nên sự hiểu lầm rằng ở Việt Nam, chỉ công dân Việt Nam mới có quyền con người, còn những người ngoại quốc thì không. Việc quy định như vậy đã trái với quy định về nhân quyền của thế giới, bởi lẽ nhân quyền là quyền tự nhiên, bất kì ai sinh ra cũng có mà không bị phân biệt giới tính, dân tộc…

Thứ hai, có thể nhận thấy trong các quy định của Hiến pháp Việt Nam là nhân quyền được quy định theo cách thức được Nhà nước thừa nhận. Điều này dễ gây hiểu nhầm rằng Nhân quyền là một quyền được Nhà nước ban phát cho người dân. Các quy định này rất dễ nhận thấy trong chương về Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam, như các Điều 53, Điều 54, 56, 57, 58... của Hiến pháp năm 1992 đều quy định dưới dạng Nhà nước thừa nhận các quyền cho công dân một cách chủ quan duy ý chí, không phải là người dân được hưởng các quyền đó một cách mặc nhiên. Cách quy định này hoàn toàn khác cách tiếp cận của Hiến pháp các nước phát triển. Quyền của công dân là những quyền thuộc về tạo hóa ban cho con người, không ai có thể vi phạm hay có quyền ban phát cho người khác. Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo cho những quyền đó được thực hiện trên thực tế. Đây là điểm quan trọng, cần đặc biệt lưu ý khi sửa đổi Hiến pháp 1992.

3.5 Nhân quyền – điểm sáng mới trong Hiến pháp 2013

Sau chặng đường hơn 10 năm đổi mới, hoàn cảnh cảnh đất nước thay đổi nên việc thay đổi Hiến pháp là một điều cần thiết để phù hợp hơn với tình hình hiện tại. Có thể nói, Di sản hiến định mà Hiến pháp năm 1946 để lại cho các Hiến pháp sau - Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và 2013 là rất lớn. Mỗi Hiến pháp đều ghi nhận cốt lõi những điều khoản về Nhân quyền trong Hiến pháp. Thế nhưng, qua mỗi giai đoạn các bản Hiến pháp đã bộc lộ những thiếu sót mà các nhà lập pháp chưa dự liệu được để Hiến pháp trở nên phù hợp với thực tiễn. Để đáp ứng những thiếu sót đó, bản Hiến pháp 2013 ra đời và đặc biệt là khi quy định về nhân quyền, nhân quyền được coi là điểm sáng[6]trong Hiến pháp 2013.

Trong bản Hiến pháp 2013 có 11 chương, 120 Điều. Trong đó, chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là chương có Điều luật nhiều nhất, gồm 36 Điều (từ Điều 14 đến Điều 49). Đây là chương quan trọng vì nói đến lập hiến là nói đến mối quan hệ giữa công dân và các cơ quan Nhà nước. Quyền con người được quy định trong chương II của Hiến pháp 2013, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại chương V của Hiến pháp năm 1992 (Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân). So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 bổ sung nhiều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu như:

Một là, đưa vị trí chương "Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân"  từ chương V trong Hiến pháp năm 1992 về chương II trong Hiến pháp 2013. Việc thay đổi vị trí nói trên không đơn thuần là sự thay đổi về bố cục mà là một sự thay đổi về nhận thức. Với quan niệm đề cao chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp, coi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí quan trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Mặc dù Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận thuật ngữ “quyền con người” - thông qua quy định “quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân” tại Điều 50, Hiến pháp năm 1992 lại chưa phân biệt rạch ròi được quyền con người với các quyền cơ bản của công dân.  Khắc phục thiếu sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt giữa “quyền con người” và “quyền công dân”. Trong Hiến pháp sửa đổi, khi nói đến quyền con người thì dùng từ “mọi người”, khi nói đến công dân Việt Nam thì dùng từ “công dân”. Quy định này thể hiện sự phát triển quan trọngvề nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Theo quy định tại Điều 14, không ai được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần thiết nói trên do Luật định. Như vậy, Hiến pháp sửa đổi quy định: việc hạn chế quyền con người, quyền công dân dứt khoát phải được quy định bằng Luật, không phải bằng văn bản dưới luật.

Hai là, Hiến pháp mới bổ sung một số quyền mới, thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển quyền, phản ảnh kết quả của quá trình đổi mới gần 30 năm qua ở nước ta. Đó là Quyền sống (Điều 19), Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20), Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, Quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43). Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, thể hiện nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người và khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thực hiện quyền con người.

Ba là, kỹ thuật lập hiến có nhiều đổi mới. Cách thể hiện có những điều riêng quy định về nguyên tắc như Điều 14, Điều 15. Các nhà lập hiến đã tham khảo các Điều ướcquốc tế mà Nhà nước ta là thành viên để nội dung các cách diễn đạt đảm bảo sự tương thích. Ngoài ra, quyền con người không chỉ đề cập ở chương II mà ở nhiều chương khác như chương về Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân. Như vậy, bộ máy nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền con người. Cách tiếp cận quyền con người này thể hiện sự kế thừa và tiếp thu quan điểm tiến bộ của các nước trên thế giới.

 

4. Kết luận

Trong một nhà nước dân chủ, nhân quyền vẫn luôn chiếm một vị trí trung tâm, được bảo vệ trước quyền lực của nhà nước. Do vậy, dù là ở hoàn cảnh nào thì nhân quyền luôn được đề cao thông qua việc được quy định cụ thể trong Hiến pháp và ngày càng được hoàn thiện hơn để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, tình hình đất nước, và cả thế giới.

Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân, là sự kết tinh của tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ mới. Việc hiến định, hiện thực hóa quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp sửa đổi là sự tiếp nối, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, đồng thời chuyển hóa sâu sắc nhiều nội dung, tinh thần các Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, nhân quyền…; tạo nền tảng pháp lý cao nhất bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được thực hiện, đáp ứng mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”./.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Giáo trình Luật Hiến pháp trường Đại học Luật TPHCM.

2.     Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013.

3.      GS - TS. Nguyễn Đăng Dung, Cách tiếp cận hay là cách thức quy định nhân quyền trong Hiến pháp, Đại học quốc gia Hà Nội.

4.      Vũ Đình Hoè - Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam: Một mô hình mới - Hiến pháp dân tộc và dân chủ,Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam, Văn phòng Quốc hội, Nxb. Chính trị Quốc gia.

5.      Nguyễn Bình An, Hiến pháp với vấn đề nhân quyền, Luận văn thạc sỹ ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, Khoa Luật ĐH Luật Hà Nội.

6.      Hoàng Văn Hảo, Hiến pháp Việt Nam với vấn đề quyền con người, quyền công dân, 2001.

7.     Tuyên ngôn độc lập Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, lời nói đầu bản Tiếng Việt trong các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội.

8.      Các tài liệu và website khác có liên quan.

 

[1]http://vi.wikipedia.org/

[2]Giáo trình về quyền con người

[3]Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người, khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1999

[4] Điều 7 Hiến pháp 1946 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình”.

[5] Điều 21 Hiến pháp1946

[6]TS. Đinh Xuân Thao trả lời Thông tấn xã Việt Nam, http:/www.vietnamplus.vn/, truy cập ngày 08/10/2014

 

NGUYỄN PHÚC THIỆN